CÁC TỘI PHẠM

Điều 194 Bộ luật hình sự quy định:
         
1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy  năm.
 
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
 
a) Có tổ chức;
 
b) Phạm tội nhiều lần;
 
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
 
d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
 
đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
 
e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;
 
g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam;
 
h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;
 
i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam;
 
k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;
 
l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam;
 
m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ  hai mươi gam đến dưới một trăm gam;
 
n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít;
 
o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 điều này;
 
p) Tái phạm nguy hiểm.
 
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:
 
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam;
 
b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;
 
c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;
d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;
 
đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam;
 
e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ  một trăm gam đến dưới ba trăm gam;
 
g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm  năm mươi mililít đến dưới  bảy trăm năm mươi mililít;
 
h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 điều này.
 
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
 
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;
 
b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;
c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên;

d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;
 
đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên;
 
e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ  ba trăm gam trở lên;
 
g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên;
h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 điều này.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Điều luật quy định tới 4 hành vi phạm tội khác nhau, nên phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để định tội danh cho chính xác.
Nếu một người thực hiện cả 4 hành vi quy định trong điều luật và cùng một loại, một lượng chất ma tuý thì định tội danh đầy đủ là “tàng trữ, vận chuyển, mua bán và chiếm đoạt chất ma tuý” và áp dụng một mức hình phạt theo điều khoản của Bộ luật hình sự mà người phạm tội bị áp dụng.
Nếu một người chỉ thực hiện một hoặc một số hành vi quy định tại điều luật thì chỉ định tội theo hành vi mà người đó thực hiện chứ không định tội danh đầy đủ như điều luật đã quy định.
Nếu một người thực hiện nhiều hành vi nhưng các hành vi không liên quan với nhau, thì phải định tội theo từng hành vi và áp dụng mức hình phạt riêng cho từng hành vi rồi tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túyquy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túytheo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu người từ đủ 16 tuổi trở lên sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội thì người dưới 16 tuổi vẫn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà người sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự vê tình tiết “sử dụng trẻ em vào việc phạm tội”
Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túythuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của Điều 194 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túylà chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ,vận chuyển, trao đổi chất ma tuý.
Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất chất ma tuý. Các chất ma tuý được liệt kê trong các bảng 1, bảng 2, bảng 3 và bảng 4 danh mục các chất ma tuý, chất hướng thần, theo quy định của Công ước quốc tế 1961; 1971; 1988. Công ước này Việt Nam đã tham gia theo quyết định số 798-QĐ/CTN ngày 1-9-1997 của Chủ tịch Nước cộng hoà xã hội Việt Nam.
Ở nước ta, các chất ma tuý thường gặp là thuốc phiện, Hêrôin, Mooc phin, cần sa và một số loại ma tuý ở dạng thuốc tân dược như: Suzusen, Dolagăng, Methamphetamin...
 
3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
 
a. Hành vi khách quan.
 
Do cơ cấu của Điều 194  là điều luật được nhập từ 4 điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985 nên người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy có các hành vi phạm tội như sau:
 
Hành vi tàng trữ.
 
Tàng trữ trái phép chất ma tuý là cất giữ bất hợp pháp chất ma tuý ở bất cứ nơi nào như: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phương tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách... mà không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma tuý khác hoặc vận chuyển từ này đến nơi khác.
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp người phạm tội cất giấu ma tuý trên phương tiện giao thông nhưng lại không có mục đích vận chuyển từ nơi này đến nơi khác, mặc dù trên thực tế phương tiện giao thông đó di chuyển từ nơi này đến nơi khác thì người phạm tội vẫn chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý  mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý.
Ngược lại, có trường hợp chất ma tuý được cất giấu một nơi cố định, nhưng người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý. 
Nếu tàng trữ trái phép chất ma tuý cho người mà khác biết rõ người này mua bán trái phép chất ma tuý đó thì hành vi cất giữ ma tuý không phải là hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà là hành vi giúp sức người mua bán trái phép chất ma tuý và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi mua bán, vận chuyển đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi mua bán chỉ có ý nghĩa trong việc định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy đủ).
Hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma tuý từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này sang người khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác... bằng bất kỳ phương thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích mua bán.
Như vậy, khái niệm vận chuyển trái phép chất ma tuý được dùng ở đây có nội hàm rộng hơn khái niệm vận chuyển hàng hoá thông thường. Vận chuyển trái phép chất ma tuý có thể giống với vận chuyển hàng hoá từ nơi này đến nơi khác có một cự ly nhất định như: dùng ôtô, xe đạp, xe máy, tàu thuỷ, máy bay... nhưng cũng có thể chỉ là hành vi chuyển dịch từ vị trí này sang vị trí khác trong một không gian chật hẹp như từ gầm giường sang giá sách, từ túi người này sang túi người khác trong một phòng, thậm chí từ túi này sang túi khác của cùng một người.
Nếu vận chuyển ma tuý hộ cho người khác mà biết rõ mục đích mua bán ma tuý của người ma mình nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển ma tuý bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý với vai trò giúp sức..
Khi xác định hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý cũng như hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý như đã giới thiệu ở trên, phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong một không gian thời gian nhất định để phân biệt đâu là hành vi tràng trữ và đâu là hành vi vận chuyển.
Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý là bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma tuý để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma tuý khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma tuý để đổi lấy hàng hoá hay dùng hàng hoá để đổi lấy ma tuý.
Bán trái phép chất ma tuý cho người khác là dùng ma tuý mà mình có dưới bất kỳ hình thức nào như: mua được, xin được, nhặt được, người khác gửi hoặc chiếm đoạt được để bán cho người khác lấy tiền hoặc lấy tài sản.
Mua chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác là dùng tiền hoặc tài sản để đổi lấy chất ma tuý và dùng chất ma tuý đó bán cho người khác lấy tiền hoặc tài sản. Khi xác định hành vi mua chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác cần chú ý: Chỉ khi nào xác định rõ mục đích của người phạm tội mua chất ma tuý đó là nhằm bán lại thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý. Việc xác định này, là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, căn cứ vào các tình tiết của vụ án.
Tuy nhiên, việc xác định mục đích của người mua trái phép chất ma tuý có nhằm bán trái phép cho người khác hay không, chỉ phức tạp trong một số trường hợp chất ma tuý có trọng lượng ít và người phạm tội thường khai rằng mua để sử dụng, còn đối với những trường hợp người phạm tội mua một lượng ma tuý lớn thì cho dù người phạm tội có nại ra rằng, mua để dùng thì việc xác định mục đích bán ma tuý đối với người phạm tội đơn giản hơn; không ai mua hàng kilôgam thuốc phiện hay 100 gam Hêrôin để sử dụng dần.
Xin chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác là bằng lời nói hoặc hành động để người khác cho mình chất ma tuý rồi dùng chất ma tuý đó đem bán cho người khác lấy tiền hoặc tài sản. Việc xin chất ma tuý nhằm bán lại cho người khác trong thực tế rất ít xảy ra, nhưng trong một số trường hợp vẫn có thể xảy ra. Nếu xin được ma tuý mà bán ngay cho người khác thì hành vi của người phạm tội là hành vi mua bán trái phép chất ma tuý, nhưng nếu xin được chất ma tuý rồi đem cất giữ sau đó mới bán cho người khác thì phải định tội là tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý.
Tàng trữ chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác là hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý sau đó đem bán chất ma tuý đó cho người khác. Hành vi tàng trữ chất ma tuý hoàn toàn giống như hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý đã nêu ở trên, chỉ khác ở chỗ nếu chỉ tàng trữ mà không đem bán hoặc không chứng minh được mục đích nhằm bán trái phép chất ma tuý đó thì người phạm tội chỉ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý còn nếu đem bán chất ma tuý đó hoặc chứng minh được người phạm tội có mục đích nhằm bán trái phép chất ma tuý đó thì phạm tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý.
Vận chuyển chất ma tuý để bán trái phép cho người khác cũng giống như hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý như đã giới thiệu ở trên, chỉ khác hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý ở chỗ người phạm tội không chỉ vận chuyển mà còn bán chất ma tuý mà mình vận chuyển cho người khác. Việc chứng minh người phạm tội có mục đích bán chất ma tuý mà mình vận chuyển cho người khác hay không trách nhiệm thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Nếu không chứng minh được người phạm tội có mục đích bán chất ma tuý mà họ vận chuyển cho người khác thì chỉ định tội là “vận chuyển trái phép chất ma tuý”, còn nếu chứng minh được người phạm tội có mục đích bán chất ma tuý mà họ vận chuyển trái phép thì định tội là “vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý”.
Nếu hành vi vận chuyển chất ma tuý không trái phép và người vận chuyển chất ma tuý đó lại bán cho người khác một cách trái phép thì phải định tội là “ chiếm đoạt, mua bán trái phép chất ma tuý”.
 
Cũng coi là hành vi mua bán trái phép chất ma tuý nếu dùng chất ma tuý để trao đổi, để thanh toán trái phép hoặc dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán lấy chất ma tuý để bán lại trái phép cho người khác.
 
Khi xác định hành vi mua bán trái phép chất ma tuý cần chú ý một số vấn đề sau:
 
Chất ma tuý mà người phạm tội có để bán cho người khác không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma tuý do đâu mà có; không phụ thuộc vào chất ma tuý đó là thật hay giả, có hàm lượng cao hay thấp.
 
Việc xác minh người phạm tội có mục đích bán chất ma tuý cho người khác hay không, là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
 
Trong trường hợp không chứng minh được mục đích bán trái phép chất ma tuý của họ, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định tội là "tàng trữ trái phép chất ma tuý" hay tội "vận chuyển trái phép chất ma tuý" hoặc “tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý”.
 
Trong trường hợp người phạm tội vừa có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý và kèm theo các hành vi khác như tàng trữ, vận chuyển hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định tội là “ tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý”; “vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý”; “chiếm đoạt, mua bán trái phép chất ma tuý” hay tội danh đầy đủ là “tàng trữ, vận chụyển, chiếm đoạt, mua bán trái phép chất ma tuý”.
 
Hành vi chiếm đoạt chất ma tuý là hành vi cướp chất ma tuý, bắt cóc nhằm chiếm đoạt chất ma tuý, cưỡng đoạt chất ma tuý, cướp giật chất ma tuý, công nhiên chiếm đoạt chất ma tuý, trộm cắp chất ma tuý, lừa đảo chiếm đoạt chất ma tuý, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất ma tuý, tham ô chất ma tuý.
 
Hành vi chiếm đoạt chất ma tuý cũng tương tự như hành vi chiếm đoạt tài sản, tức là người phạm tội phải có ý thức chiếm đoạt chất ma tuý ngay trước, trong khi thực hiện hành vi khách quan của tội phạm.
 
Nếu người phạm tội không có ý thức chiếm đoạt chất ma tuý hoặc không chứng minh được ý thức chiếm đoạt chất ma tuý mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau khi chiếm đoạt được tài sản mới biết trong tài sản còn có chất ma tuý nhưng người phạm tội vẫn cất giữ, vận chuyển hoặc mua bán thì không bị coi là hành vi chiếm đoạt chất ma tuý, mà tuỳ trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội có trách nhiệm hình sự chất chiếm đoạt (cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp tài sản...) và tội tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán trái phép chất ma tuý.
 
Nếu ngay sau khi chiếm đoạt tài sản người phạm tội mới biết trong tài sản có chất ma tuý và đem chất ma tuý đó nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không coi là hành vi chiếm đoạt chất ma tuý mà chỉ bị coi là chiếm đoạt tài sản.
 
b. Hậu quả
 
Hậu quả của các tội phạm về ma tuý nói chung và hậu quả của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý nói riêng không phải là yếu tố bắt buộc để định tội. Những thiệt hại do hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý gây ra cho xã hội chính là những thiệt hại phi vật chất (chính sách quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý).
 
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu hành vi chiếm đoạt chất ma tuý lại gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh tương ứng với những thiệt hại mà người phạm tội gây ra. Số lượng chất ma tuý mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý cũng được coi là hậu quả của tội phạm nhưng hậu quả này chỉ là những thiệt hại gián tiếp cho xã hội và đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt, số lượng càng lớn thì thiệt hại cho xã hội càng nhiều và người phạm tội bị phạt càng nặng.
 
Riêng hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nếu trọng lượng chất ma tuý dưới mức hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ nội vụ tại Thông tư liên tich số 01/1998 ngày 2-1-1998 thì chưa cấu thành tội phạm.
 
4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm
 
Người phạm tộitàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thực hiện hành vi phạm tội của mình do cố ý,  tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý nhưng vẫn thực hiện. Như vậy, đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép  chất ma tuý chỉ có thể được thực hiện do cố ý trực tiếp. Không có trường hợp nào do cố ý gián tiếp. Tuy nhiên, đối với hành vi chiếm đoạt chất ma tuý thì người phạm tội có thể thực hiện hành vi của mình do cố ý gián tiếp trong trường hợp người phạm tội không cần xác định đối tượng ma tuý cũng chiếm đoạt mà tài sản khác cũng chiếm đoạt ( bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra, ma tuý cũng lấy mà tài sản khác cũng lấy).
 
GIÁM ĐỊNH HÀM LƯỢNG CHẤT MA TÚY, MỘT YÊU CẦU BẮT BUỘC TRONG XỬ LÝ TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
 
Theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.4 mục 1 phần I Thông tư liên tịch số 17 thì: Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưmg cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất. Nếu chất được giám định không phải là chất ma túy hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trải phép chất ma túy nhưng người thực hiện hành vi ý thức rằng chất đó là chất ma túy hoặc chất đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì tùy hành vi phạm tội cụ thể mà trưy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma túy. Trường hợp một người biết là chất ma túy giả nhưng làm cho người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi... thì người đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm về ma túy mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 BLHS, nếu thoả mãn các dấu hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm của tội này.
 
Tại tiết a và b tiểu mục 1.1 mục 1 phần I Thông tư liên tịch số 17 cũng hướng dẫn: Đối với các chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch (như dung dịch thuốc phiện, dung dịch hêrôin dùng để tiêm, chích) hoặc chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng để tiện cho việc sử dụng thì không coi toàn bộ dung dịch này là chất ma túy ở thể lỏng mà cần xác định hàm lượng moocphin trong dung dịch để tính trọng lượng của chất ma túy đó. Đối với xái thuốc phiện thì không coi là nhựa thuốc phiện mà phải xác định hàm lượng moocphin trong xái thuốc phiện để tính trọng lượng của thuốc phiện”.
 
Theo Từ điển tiếng Việt thì hàm lượng là “lượng của một chất chứa trong một hỗn hợp hoặc trong một chất nào đó, tính bằng phần trăm (%) . Như vậy, hàm lượng chất ma túy là phần trăm chất ma túy có trong chất nghi là ma túy được giám định. Phải xác định được hàm lượng chất ma túy có trong chất nghi là ma túy thì cơ quan tiến hành tố tụng mới có thể xác định chính xác được trọng lượng chất ma túy để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 194 của BLHS thì người mua bán trái phép hêrôin từ 30 gam đến dưới 100 gam thì bị phạt tù đến 20 năm; nếu từ 100 gam hêrôin trở lên thì có thể bị phạt tù  chung thân hoặc tử hình. Ví dụ: một vụ án mà tang vật nghi là chất ma túy thu giữ được có trọng lượng là 1000 gam; theo quy định, trọng lượng hêrôin thu được là 1000 gam thì Tòa án sẽ xử bị cáo ở mức án tử hình. Nhưng nếu kết quả giám định chỉ có 5% là hêrôin thì trọng lượng hêrôin được xác định sẽ là 1000 gam X 5% = 50 gam; khi xác định chính xác chỉ có 50 gam hêrôin thì bị cáo chỉ bị xét xử tối đa là 20 năm tù.
 
Như vậy Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP để hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII của BLHS năm 1999 là rất quan trọng. Đặc biệt theo quy định tại Phần I, mục 1.4 của Thông tư liên tịch này thì: “Trong mọi trường hợp khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất”.
 
Tuy nhiên qua công tác giám đốc việc xét xử, TANDTC thấy còn có nhiều trường hợp HĐXX chỉ căn cứ vào kết quả giám định về trọng lượng của các chất nghi là ma túy để kết tội các bị cáo, mà không yêu cầu xác định hàm lượng chất ma túy trong các chất thu được đó, như vậy là áp dụng không đúng quy định của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Thông tư liên ngành, dẫn đến hậu quả có thể xét xử bị oan sai.
 
Để khắc phục tình trạng này, ngày 17/9/2014, TANDTC ban hành Công văn số 234/TANDTC-HS yêu cầu TAND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, TAND các huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh, Tòa án quân sự các cấp cần quán triệt và triển khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17, đó là khi xét xử các vụ án phạm tội về ma túy thì phải có kết quả trưng cầu giám định hàm lượng ma túy trong các chất thu giữ được nghi là ma túy, từ đó xác định đúng trọng lượng chất ma túy để kết tội các bị cáo. Yêu cầu này của TANDTC là chấp hành theo đúng Hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 17 mà 4 cơ quan Trung ương đã ký để làm căn cứ cho Tòa án kết tội các bị cáo bảo đảm khách quan, chính xác.
 
Theo Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình: Các cơ quan tố tụng phải thực hiện nghiêm việc giám định hàm lượng chất ma túy theo đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 thì Tòa án mới có căn cứ để tuyên một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm. Nếu khi thụ lý hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát mà trong hồ sơ không có kết quả giám định hàm lượng chất ma túy trong các chất thu giữ được nghi là chất ma túy thì không có đủ căn cứ để Tòa án giải quyết vụ án và có thể dẫn đến kết quả xét xử bị oan sai, đặc biệt là đối với những vụ án nghiêm trọng có mức án chung thân hoặc tử hình; hậu quả xảy ra sẽ rất lớn, thậm chí không thể khắc phục được.
 

Gửi bình luận và chia sẻ bài viết này trên:

Tin tức tổng hợp
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ HÀ NỘI - AVINA